NC Network xin chia sẻ thông tin hữu ích tới doanh nghiệp.
Công nghiệp hỗ trợ (CNHT) ngành cơ khí tại Việt Nam là lĩnh vực khá phát triển, cung ứng sản phẩm tương đối hiệu quả so với các lĩnh vực CNHT khác. Tuy nhiên, ngành CNHT Việt Nam vẫn còn hàng loạt “điểm yếu”, nên sản phẩm cơ khí Việt Nam vẫn khó cạnh tranh trong nước và ngoài nước. Điều này đòi hỏi cần có chính sách mạnh mẽ khuyến khích phát triển sản xuất các loại vật liệu chế tạo, cũng như lựa chọn phát triển có trọng điểm các ngành công nghiệp hạ nguồn.
1. Tăng thị phần nội địa
Hiện nay, cơ khí Việt Nam có thế mạnh tập trung ở ba phân ngành chính, gồm xe máy và phụ tùng linh kiện xe máy, cơ khí gia dụng và dụng cụ, ô tô và phụ tùng ô tô. Số liệu thống kê cho thấy, tổng ba phân ngành này chiếm gần 70% giá trị sản xuất công nghiệp của lĩnh vực cơ khí trên cả nước.
Sản phẩm CNHT ngành cơ khí cung cấp là các loại chi tiết, linh kiện, cụm linh kiện kim loại cho các ngành hạ nguồn. Việt Nam hiện có trên 500 doanh nghiệp sản xuất các loại linh kiện kim loại cung ứng cho các ngành hạ nguồn, chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong số hơn 7.000 doanh nghiệp cơ khí của cả nước. Thị trường chính của các doanh nghiệp trong ngành là các lĩnh vực sản xuất xe máy, máy móc công – nông nghiệp, ô tô.
Theo Hiệp hội Doanh nghiệp cơ khí Việt Nam (VAMI) trong thời gian qua, một số sản phẩm cơ khí được sản xuất đạt chất lượng tốt, tương đương với chất lượng sản phẩm của một số quốc gia trong khu vực. Hiện doanh nghiệp sản xuất linh kiện ngành cơ khí trong nước có năng lực khá tốt tại một số lĩnh vực như: Khuôn mẫu các loại, linh kiện cơ khí, dây cáp điện, linh kiện nhựa, cao su kỹ thuật…
Thêm vào đó, nhu cầu của thị trường CNHT rất lớn nên nhiều doanh nghiệp đã mạnh dạn đầu tư để nâng cao năng lực sản xuất, chú trọng phát triển các dòng sản phẩm chất lượng, phục vụ doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), hướng vào xuất khẩu sản phẩm cơ khí.
Trong đó, công nghiệp sản xuất linh kiện kim loại cho ngành xe máy được đánh giá là tương đối phát triển với năng lực cung ứng đạt mức cao. Do dung lượng thị trường lớn, các doanh nghiệp lắp ráp FDI tại Việt Nam đã kêu gọi được nhiều nhà cung ứng FDI đầu tư theo và xây dựng được quan hệ hợp tác với các nhà cung ứng trong nước. Công nghiệp sản xuất linh kiện kim loại cho máy móc nông nghiệp, máy động lực và máy xây dựng cũng tương đối phát triển với tỷ lệ nội địa hóa khá cao.
Công nghiệp sản xuất linh kiện cơ khí cho ngành ô tô, thiết bị đồng bộ và công nghiệp công nghệ cao hiện còn gặp nhiều khó khăn. Nguyên nhân chủ yếu là do thị trường của các sản phẩm này là các ngành hạ nguồn nêu trên chưa phát triển đủ mạnh để tạo hiệu ứng lan tỏa phát triển CNHT.
Điểm sáng trong ngành cơ khí có thể kể đến là ngành chế tạo thiết bị điện, với việc sản xuất thành công máy biến áp 220kV- 250MVA, vận hành an toàn tại trạm 220kV (Thái Nguyên) đã khẳng định sự trưởng thành vượt bậc của ngành cơ khí điện, đồng thời làm đối trọng để các hãng nước ngoài bán sản phẩm vào Việt Nam phải giảm giá từ 20%-30% khi đấu thầu tại Việt Nam, góp phần làm giảm nhập siêu cho đất nước.
Trong bối cảnh khó khăn do ảnh hưởng của dịch Covid-19 thời gian qua, chuỗi cung ứng toàn cầu bị gián đoạn vừa là thách thức nhưng cũng lại mở ra cơ hội cho các doanh nghiệp cơ khí trong nước trong việc tăng thị phần nội địa. Các doanh nghiệp trong ngành đã liên kết lại để hình thành chuỗi cung ứng máy móc Việt Nam với triển vọng phát triển thị trường rất lớn.
2. Thị trường các sản phẩm hạ nguồn chính còn kém phát triển
Tuy nhiên, theo nhận định chung của các chuyên gia thì ngành cơ khí Việt Nam hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế; số lượng sản phẩm mang thương hiệu Việt, rõ nét dấu ấn Việt Nam vẫn chưa nhiều. Nhiều doanh nghiệp lớn trong chuỗi cung ứng vẫn coi cơ khí Việt Nam chỉ là sản phẩm phụ trợ.
Theo tính toán của Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản, khả năng cung ứng vật liệu linh kiện của Việt Nam so với các nước trong khu vực chỉ chiếm 39,6%. Trong khi đó, khả năng cung ứng của Trung Quốc chiếm 59,5%; Malaysia chiếm 49,3%; Indonesia chiếm 44,8% và Thái Lan chiếm 41,7%.
Hàng loạt các vấn đề được coi là “điểm yếu” của CNHT ngành cơ khí như: thiết bị phần lớn là vạn năng, qua nhiều năm sử dụng đã lạc hậu về tính năng kỹ thuật, độ chính xác kém, thiếu phụ tùng thay thế, thiếu bảo dưỡng định kỳ, thiếu vốn để đầu tư thay thế, đổi mới, nâng cấp.
Cơ khí Việt Nam chưa có kinh nghiệm đúc chính xác cao, chưa đúc được những mác thép có chất lượng và độ bền cao. Khâu nhiệt luyện và xử lý chất lượng bề mặt các sản phẩm cơ khí còn yếu đã ảnh hưởng xấu đến chất lượng của các chi tiết thành phẩm. Hiện ngành cơ khí còn thiếu những cơ sở nhiệt luyện tiên tiến. Khâu gia công kim loại bằng cắt gọt vẫn sử dụng đa số các loại máy móc công cụ lạc hậu, thiếu chính xác, phương pháp công nghệ cũ, trình độ tự động hóa thấp… Ngành cơ khí đòi hỏi sự phát triển về nguyên vật liệu, khuôn mẫu, gia công chế tạo chứ không chỉ gia công cắt gọt đơn thuần.
Khó khăn lớn nhất để phát triển sản xuất các loại linh kiện cơ khí ở Việt Nam là hạn chế về nguồn cung ứng vật liệu sản xuất, đặc biệt là thép chế tạo là một cản trở lớn. Các hãng sản xuất sản phẩm cơ khí cuối cùng cũng như doanh nghiệp CNHT vẫn phải nhập khẩu thép chế tạo phục vụ nhu cầu sản xuất linh kiện, thiết bị.
Hàng năm, Việt Nam nhập khẩu từ nước ngoài hàng chục tỷ USD trang thiết bị, máy móc, vật tư sản xuất cho toàn ngành kinh tế, bao gồm các ngành sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng hạ tầng, dịch vụ và an ninh, quốc phòng… Mặc dù vậy, ngành cơ khí nội địa Việt Nam lại không có được nhiều thị phần của dung lượng thị trường này. Bên cạnh đó, thị trường các sản phẩm hạ nguồn chính (ô tô, thiết bị đồng bộ, công nghiệp công nghệ cao) còn kém phát triển cũng đã hạn chế khả năng phát triển của lĩnh vực này.
Đứng trước khó khăn chung của nền kinh tế công nghiệp Việt Nam trong những năm qua, Bộ Công Thương đã đẩy mạnh hiệu quả hoạt động của 2 Trung tâm kỹ thuật hỗ trợ phát triển công nghiệp miền Bắc và miền Nam để hỗ trợ doanh nghiệp cơ khí, CNHT đào tạo hệ thống quản trị sản xuất, hệ thống quản lý kinh doanh, nâng cao năng lực đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế. Tuy nhiên, để thúc đẩy lĩnh vực sản xuất linh kiện cơ khí phát triển, Nhà nước cần có chính sách mạnh mẽ khuyến khích phát triển sản xuất các loại vật liệu chế tạo; đồng thời lựa chọn phát triển có trọng điểm các ngành hạ nguồn đi kèm với khuyến khích phát triển CNHT cho những lĩnh vực đó.